TIN TỨC TỪ CÔNG TY ĐIỆN LỰC TPHCM

1/ EVN cải cách rất chủ động và quyết liệt về tiếp cận điện năng

  Ngày đăng: 21/11/2018

Đó là khẳng định của ông Đậu Anh Tuấn - Trưởng Ban Pháp chế, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) tại Hội thảo "Công bố báo cáo thực hiện Nghị quyết 19, Nghị quyết 35 về cải cách môi trường kinh doanh và phát triển doanh nghiệp - góc nhìn từ doanh nghiệp". Sự kiện diễn ra ngày 20/11, tại Hà Nội.

Hội thảo có sự tham dự của ông Vũ Tiến Lộc - Chủ tịch VCCI, ông Nguyễn Đình Cung - Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, cùng đại diện một số Bộ, ban, ngành, địa phương.

Về phía EVN có ông Võ Quang Lâm - Phó Tổng giám đốc EVN, ông Nguyễn Quốc Dũng - Trưởng Ban Kinh doanh EVN tham dự.

Chính phủ ban hành Nghị quyết 19 từ năm 2014 đến 2018 và Nghị quyết 35 năm 2016, trong đó giao nhiều nhiệm vụ cụ thể cho các cơ quan Nhà nước và chính quyền địa phương trong việc cải thiện môi trường kinh doanh và hỗ trợ doanh nghiệp; hướng tới mục tiêu Việt Nam sẽ đạt Top 4 ASEAN, có 1 triệu doanh nghiệp vào năm 2020. "Cả 2 nhóm mục tiêu này đều mang tính trọng yếu, quyết định sự phát triển của kinh tế Việt Nam" - ông Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch VCCI khẳng định. 

Phân tích cụ thể về tình hình thực hiện cải cách môi trường kinh doanh và phát triển doanh nghiệp tại Việt Nam, ông Đậu Anh Tuấn - Trưởng Ban Pháp chế VCCI cho biết có 2 lĩnh vực nổi bật nhất là thành lập doanh nghiệp và tiếp cận điện năng. Trong đó, 74% doanh nghiệp được khảo sát đánh giá tiếp cận điện năng đã cải thiện ở mức tốt. 

Cũng theo khảo sát của VCCI từ các doanh nghiệp, điện năng cũng là loại hạ tầng tốt thứ hai tại Việt Nam, chỉ sau viễn thông - điện thoại. Hầu hết các doanh nghiệp được hỏi đều phản ánh tích cực về độ ổn định cung cấp điện. Nếu như năm 2012, thời gian mất điện trung bình của mỗi khách hàng là 8.000 phút/năm, thì con số này hiện đã giảm xuống chỉ còn 235 phút/năm. 

“Các kết quả này tương đồng với đánh giá của Doing Business. Trong 10 chỉ số đánh giá môi trường kinh doanh của Việt Nam, tiếp cận điện năng là chỉ số thuộc Top đầu có cải cách nhanh và cải thiện rất bền vững, cho thấy Tập đoàn Điện lực Việt Nam đã thực hiện cải cách rất chủ động và quyết liệt ”- ông Đậu Anh Tuấn khẳng định.

Chia sẻ tại Hội thảo, ông Võ Quang Lâm - Phó Tổng giám đốc EVN cho biết, chỉ số tiếp cận điện năng năm 2018 xếp thứ hạng 27/189 quốc gia, nền kinh tế; tăng 129 bậc so với năm 2013. Chỉ tiêu này đã chính thức lọt Top 4 ASEAN trước 2 năm so với mục tiêu đề ra tại Nghị quyết 19. "Kết quả này có được từ sự nỗ lực của CBCNV trong toàn Tập đoàn và sự hỗ trợ, phối hợp tích cực từ các Bộ, ngành, địa phương" - ông Võ Quang Lâm khẳng định.

Cũng theo Phó Tổng giám đốc EVN, trong 5 năm qua, CBCNV Điện lực đã hoàn toàn thay đổi nhận thức về công tác dịch vụ. Khách hàng là trung tâm và EVN luôn nỗ lực cung ứng dịch vụ điện tới khách hàng với chất lượng ngày càng tốt hơn. Qua phân tích phương pháp của Doing Business, EVN đã học hỏi cách làm của thế giới, nghiên cứu thay đổi quy trình kinh doanh điện. Đồng thời, EVN đã đẩy mạnh thực hiện 1 cửa liên thông, nhằm đem đến sự thuận lợi, dễ dàng cho khách hàng trong tiếp cận, sử dụng dịch vụ điện.

Hiện nay, Tập đoàn đã cung ứng 100% dịch vụ điện trực tuyến tương đương cấp độ 3. Trên lộ trình ứng dụng mạnh mẽ công nghệ số, Tập đoàn sẽ chính thức cung ứng tiện ích thanh toán tiền điện mọi lúc mọi nơi, tương đương dịch vụ công cấp độ 4 từ tháng 12 năm nay. 

 
2/
 Vay mua thiết bị điện năng lượng mặt trời tại Sacombank

Sacombank vừa triển khai gói cho vay không giới hạn tổng hạn mức tín dụng dành cho khách hàng cá nhân có nhu cầu mua thiết bị điện năng lượng mặt trời với nhiều ưu đãi như hạn mức vay lên đến 100% nhu cầu vốn (tối đa 500 triệu đồng), lãi suất giảm 1% so với lãi suất hiện hành, không cần tài sản đảm bảo, thời gian vay đến 60 tháng. 

Khách hàng có nhu cầu vay không những được hỗ trợ về hồ sơ đơn giản, giải ngân nhanh chóng mà còn được miễn phí sử dụng 6 tháng gói dịch vụ tại Sacombank.

Chị Thu Nga (TP.HCM), một khách hàng của Sacombank, cho biết: “Tôi vừa vay 50 triệu đồng ở Sacombank để lắp đặt thiết bị sử dụng năng lượng mặt trời ở nhà, giúp tôi tiết kiệm được khá nhiều tiền điện cho đèn, quạt, máy lạnh… Trước đây, tôi nghĩ thủ tục vay mà không cần thế chấp chắc phức tạp và khó khăn lắm, vậy mà để vay được khoản này, tôi chỉ cần nộp bản sao hộ khẩu, thẻ bảo hiểm y tế và hóa đơn điện là được giải quyết ngay”.

Hiện nay, nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao, các sản phẩm điện mặt trời đang được ngày càng đa dạng về chủng loại, quy mô, cũng như công nghệ sản xuất ngày càng hiện đại, nên khách hàng có thêm nhiều sự lựa chọn cho phù hợp với nhu cầu. Đây không chỉ là giải pháp tiết kiệm ở khu vực thành thị, mà còn là giải pháp tăng cường nguồn điện ở các địa bàn chưa có lưới điện hoặc gặp khó khăn trong việc cấp điện để phục vụ sinh hoạt và ngành nghề mưu sinh của các gia đình.

 

 3/ EVN đẩy mạnh tuyên truyền pháp luật bảo vệ Biển đảo tổ quốc

      Ngành Điện Lực - EVN đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến pháp luật về biển

     Theo chỉ đạo của Bộ Công Thương, Tập đoàn Điện lực Việt Nam vừa yêu cầu tất cả các đơn vị trực thuộc tổ chức thực hiện "Đợt cao điểm năm 2014 tuyên truyền, phổ biến pháp luật về biển" đến toàn thể cán bộ, công nhân viên.

      Theo đó, các nội dung tuyên truyền, phổ biến gồm: Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982; Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC); Luật biển Việt Nam; Luật biên giới quốc gia; Luật an ninh quốc gia; Bộ luật Hàng hải Việt Nam; Luật Thủy sản; Luật dầu khí.

       EVN yêu cầu, việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật về biển phải được thực hiện đa dạng, phong phú dưới nhiều hình thức như: Gửi văn bản; tổ chức tọa đàm; lồng ghép trong các cuộc họp, sinh hoạt, nói chuyện chuyên đề; tổ chức cuộc thi tìm hiểu về pháp luật biển; tăng thời lượng tin, bài tuyên truyền, phổ biến pháp luật về biển trên cổng thông tin, trang thông tin nội bộ, báo, tạp chí… Phối hợp với các tổ chức đoàn thể như Công đoàn, Đoàn thanh niên tại các đơn vị thực hiện tốt việc tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về biển cho cán bộ, công nhân viên đơn vị mình.
       Công tác tuyên truyền, phổ biến cần được tổ chức sâu rộng, đảm bảo tính chủ động, nhạy bén, chính xác, rõ ràng, dễ hiểu, trên cơ sở đó khẳng định rõ chủ quyền, quyền tài phán quốc gia Việt Nam theo quy định của pháp luật quốc tế.
      Đặc biệt, Tập đoàn sẽ đưa việc thực hiện công tác này vào một trong những nội dung kiểm tra việc thực hiện pháp luật, Quy chế quản lý nội bộ của EVN tại đơn vị.
Đợt cao điểm tuyên truyền, phổ biến pháp luật về biển được thực hiện đến hết ngày 15/10/2014.


4/ PHÁT TRIỂN NĂNG LƯỢNG GIÓ – NGUỒN TÀI NGUYÊN BỊ LÃNG QUÊN

     Năng lượng gió (Điện gió) đã được đưa vào khai thác ở nhiều địa phương ven biển nhưng thực tế, năng lượng điện gió vẫn còn xa lạ với rất nhiều người và có thể nói, những gì mà điện gió mang đến chưa thực sự xứng tầm với tiềm năng của nguồn năng lượng này.

      Vì thế, trong một tương lai không xa, khi mà các nguồn năng lượng khác như thủy điện, nhiệt điện hay thậm chí cả điện hạt nhân ngày càng cạn kiệt cũng như khó khai thác thì điện gió thực sự là một giải pháp hữu ích cho bài toán năng lượng điện ở nước ta.

Điện gió - Nguồn tài nguyên vô tận
 
      Theo thống kê của Viện Tài nguyên và Môi trường, nước ta có đặc điểm là có bờ biển dài lên đến hơn 3000 cây số, nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa có địa hình tự nhiên đa dạng, đồng bằng, trung du, cao nguyên, có bờ biển dài... là một lợi thế tiềm năng cho khai thác nguồn năng lượng sức gió. Theo khảo sát của các nhà khoa học, năng lượng gió của Việt Nam có tổng công suất đạt 513.360 MW, gấp 200 lần công suất của Nhà máy thủy điện Sơn La và gấp 10 lần tổng công suất dự báo của ngành điện vào năm 2020. Các địa phương ven biển như Bình Thuận, Ninh Thuận hay thậm chí cả Lâm Đồng và một phần tại tỉnh Trà Vinh, Bến Tre, Sóc Trăng... là những khu vực có điều kiện tự nhiên rất thuận lợi cho xây dựng các nhà máy điện gió chạy bằng sức gió.
 
     Cụ thể, theo những nghiên cứu mới đây của Ngân hàng thế giới, hai vùng giàu tiềm năng nhất để phát triển năng lượng gió của nước ta là Sơn Hải (Ninh Thuận) và vùng đồi cát ở độ cao 60-100m phía tây Hàm Tiến đến Mũi Né (Bình Thuận). Với đặc điểm chính là gió vùng này không những có vận tốc trung bình lớn mà còn có một thuận lợi khác. Đó là số lượng các cơn bão khu vực ít và gió có xu thế ổn định. Đây là những điều kiện rất thuận lợi để phát triển năng lượng gió. Trong những tháng có gió mùa, tỷ lệ gió Nam và Đông Nam lên đến 98% với vận tốc trung bình 6-7m/s, tức là vận tốc có thể xây dựng các trạm điện gió công suất 3-3,5MW. Có thể nói, với đặc điểm tự nhiên vô cùng thuận lợi như đã nêu, nguồn tài nguyên điện gió ở nước ta là rất lớn, gần như vô tận.
 
     Theo nhiều chyên gia về môi trường, ưu điểm lớn nhất của nguồn năng lượng gió khi khai thác được là bởi đây là nguồn năng lượng xanh, thân thiện với môi trường và không gây ra những tác hại đáng kể tới an sinh xã hội. Bên cạnh đó, năng lượng gió còn được đánh giá cao bởi nó là một trong những nguồn năng lượng tái sinh quan trọng nhất đang và sẽ đóng góp ngày càng lớn vào sản lượng năng lượng của thế giới chứ không chỉ riêng ở Việt Nam. Nghĩa là, sau khi xây dựng nhưng hệ thống tuốc-bi để hấp thụ nguồn năng lượng gió, sản lượng điện có thể tái tạo hàng năm, vào những mùa có gió chứ không như những nguồn năng lượng than đá, dầu mỏ thường cạn kiệt dần theo thời gian.
 
    Mặc dù vậy, cũng như nhiều nguồn năng lượng tự nhiên đang được khai thác khác, điện gió cũng có một số nhược điểm nhất định, cần phải giải quyết. Đầu tiên là tình trạng phụ thuộc quá lớn vào tự nhiên. Nghĩa là, nếu như nhiệt điện có thể được tạo ra bởi sự chi phối hoàn toàn của con người hay như thủy điện, tác động của con người cũng rất lớn, bằng hệ thống hồ đập chứa nước. Theo đó, ngay cả mùa khô, khi lượng mưa giảm, nước ở những dòng chảy sông ngòi tự nhiên không có, hệ thống thủy điện vẫn có thể hoạt động được, do lượng nước dự trữ trong lòng hồ. Vậy nhưng, điện gió thì lại hoàn toàn không thể hoạt động được nếu ở trong tự nhiên không có gió. Điều này dẫn đến việc sản lượng điện thường xuyên không ổn định, nhất là trong thời gian mà thời tiết có nhiều thay đổi, biến động như hiện nay. Vì vậy, dù có xây dựng hệ thống nhà máy, cánh quạt hay đường dẫn hiện đại đến đâu đi chăng nữa mà thời tiết thay đổi, hướng và tốc độ gió biến động thì nhà máy điện gió cũng bị ảnh hưởng. Cũng vì những lý do có tính phụ thuộc vào điều kiện môi trường như trên, năng lượng gió tuy ngày càng phổ biến và quan trọng nhưng không thể là nguồn năng lượng chủ lực, chỉ đóng vai trò thứ yếu mà thôi.
 
     Ngoài ra, một đặc điểm cần lưu ý nữa là khả năng các trạm điện gió sẽ gây ô nhiễm tiếng ồn trong khi vận hành, cũng như có thể phá vỡ cảnh quan tự nhiên và ảnh hưởng đến tín hiệu của các sóng vô tuyến nếu các yếu tố về kỹ thuật không được quan tâm đúng mức. Do vậy, khi xây dựng các khu điện gió cần tính toán khoảng cách hợp lý đến các khu dân cư, khu du lịch để không gây những tác động tiêu cực. Nghĩa là, hầu hết các dự án điện gió ở nước ta chỉ được phép hoạt động ở những khu vực hẻo lánh, hoang vu mà thôi.

     Theo những ghi nhận thực tế về tình hình điện gió trên thế giới thì trong khoảng mười năm trở lại đây, điện gió phát triển đột biến, ở nhiều đất nước chứ không chỉ riêng Việt Nam. Lý do trước hết nằm ở nguy cơ khủng hoảng năng lượng của các nước đã phát triển. Mặt khác, mối quan tâm ngày càng cao của các nước này về bảo vệ môi trường đã tiếp thêm sức mạnh cho những nỗ lực tìm kiếm các dạng năng lượng tái tạo thân thiện với môi trường, trong đó điện gió hiển nhiên là một ứng cử viên sáng giá.

     Cụ thể, Đức là nước dẫn đầu chiếm hơn 30% tổng công suất điện gió của thế giới. Sau đó là Tây Ban Nha và Mỹ. Ở Anh, số lượng các tuốc bin phát điện bằng sức gió lắp đặt mới sẽ tiếp tục gia tăng trong vòng ít nhất 4 năm tới, mặc dù có nhiều phản đối vì chúng gây tiếng ồn và mất mỹ quan. Điều này sẽ khiến tốc độ tăng trưởng của ngành công nghiệp năng lượng gió sẽ gia tăng nhanh hơn dự kiến. Năng lượng gió riêng ở Scotland có thể gia tăng nhiều nhất, đạt sản lượng khoảng 6000 MW vào năm 2020 tức là gấp gần 10 lần so với khoảng 665 MW trong năm nay. Các tuốc bin chạy bằng sức gió ở đất liền hiện cung cấp điện cho khoảng 3 triệu gia đình ở Anh và chiếm 5% tổng sản lượng điện của nước này. Tại các nước châu Âu, các nhà máy điện gió không cần đầu tư vào đất đai để xây dựng các trạm tuốc bin mà thuê ngay đất của nông dân. Giá thuê đất khoảng 20% giá thành vận hành thường xuyên giúp mang lại một nguồn thu nhập ổn định cho nông dân, trong khi diện tích canh tác không bị ảnh hưởng nhiều.

     Còn ở Việt Nam, với hai nguồn năng lượng chính là dầu mỏ và than đá nhưng với tốc độ khai thác như hiện nay, những nguồn tài nguyên này chắc chắn sẽ dần cạn kiệt. Vì vậy việc phát triển, khai thác nguồn năng lượng gió có tiềm năng vô tận này ngày càng đóng vai trò quan trọng cho cân bằng năng lượng và an ninh năng lượng của đất nước. 

      Để tận dụng triệt để nguồn năng lượng gió thường xuyên tái tạo, cần sớm triển khai chương trình phát triển điện gió. Tuy nhiên, thực tiễn thời gian qua cho thấy, việc phát triển điện gió không hề đơn giản bởi dù tiềm năng thiên nhiên sẵn có nhưng vốn đầu tư để phát triển vẫn còn là một bài toán khó. Nghĩa là, không như thủy điện, việc phát triển điện gió vẫn chưa được nhiều nhà đầu tư quan tâm đúng mức dù Chính phủ đã có nhiều chủ trương khuyến khích, tạo điều kiện để doanh nghiệp phát triển. Theo đó, hầu hết các công trình dự án điện gió đều có vốn đầu tư lớn mà thời gian thu hồi vốn lại dài, khiến nhiều doanh nghiệp còn e dè. Một nghiên cứu gần đây cho biết, giá thành có điện gió thường cao hơn so với điện nhiệt và thủy điện. Điều này là nguyên nhân chính cản trở, làm chậm quá trình phát triển điện gió, biến nguồn năng lượng này thành những dòng điện có ích phục vụ cuộc sống. Tuy nhiên, như một nhu cầu tất yếu của cuộc sống, nhiều dự án điện gió hiện nay ở miền Tây như Sóc Trăng, Bến Tre cũng đang chuẩn bị hình thành để dần thay thế các nguồn điện khác khi mà vốn đầu tư vào công nghệ điện gió ngày càng trở lên thông dụng, không quá đắt đỏ nữa. Hi vọng, trong tương lai không xa, nguồn năng lượng tự nhiên thân thiện với môi trường này sẽ được đưa vào sử dụng rộng rãi trong thực tiễn cuộc sống ở nước ta.

 5/ TỔNG HỢP TỈ LỆ NÔNG THÔN TRÊN CẢ NƯỚC ĐÃ CÓ ĐIỆN

     Theo tổng hợp, tính đến cuối năm 2014, đã có 99,59% số xã và 98,22% số hộ dân nông thôn trên cả nước được sử dụng điện. Trong đó, tỷ lệ được sử dụng điện tại khu vực các tỉnh miền núi Tây Bắc đạt 97,55% về số xã và 85,09% số hộ dân, khu vực các tỉnh Tây Nguyên là 100% về số xã và 96,17%85,09% số hộ dân. Các con số này ở khu vực Tây Nam Bộ lần lượt là 100% và 97,72%.

     Để đạt được kết quả trên, trong năm 2014, hàng loạt các dự án cấp điện cho đồng bào chưa có điện tại các tỉnh Trà Vinh, Sóc Trăng, Kiên Giang, Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Bắc Kạn đã được EVN và các đơn vị tích cực triển khai, kịp thời giải ngân nguồn vốn ngân sách thực hiện dự án. 

     EVN và các đơn vị cũng đã hoàn thành Dự án đưa điện lưới quốc gia bằng cáp ngầm xuyên biển cho huyện đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi), Dự án cấp điện cho 5 xã thuộc huyện đảo Vân Đồn (Quảng Ninh) trước Tết Âm lịch 2015; chuẩn bị hoàn thành dự án cấp điện huyện đảo Kiên Hải (Kiên Giang), góp phần cải thiện đời sống của nhân dân, phát triển kinh tế lâu dài và bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc.

     Bên cạnh đó, EVN và các đơn vị còn tiếp tục thực hiện chương trình tiếp nhận lưới điện hạ áp nông thôn tại 708 xã với 628.185 hộ sử dụng điện. Tính đến tháng 12/2014, các tổng công ty điện lực đã bán điện trực tiếp đến 86,68% số xã có điện trên cả nước (7.840/9.045 xã), với 84,15% số hộ nông thôn (14,9/18,43 triệu hộ gia đình).

      Trong năm 2015, để tiếp tục đưa điện đến với đồng bào các dân tộc vùng sâu, vùng xa, nông thôn, miền núi, hải đảo EVN yêu cầu các đơn vị phải đảm bảo tiến độ thi công và giải ngân đối với các dự án cấp điện nông thôn từ nguồn ngân sách Nhà nước, vốn vay từ các tổ chức tài chính và ngân hàng quốc tế (như Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển châu Á, Ngân hàng Tái thiết Đức).

      Đồng thời, tiếp tục hoàn thiện và trình Bộ Công Thương phê duyệt các dự án đầu tư theo Chương trình cấp điện nông thôn, miền núi, hải đảo giai đoạn 2013-2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định 2081/QĐ-TTg ngày 8/11/2013.

 6/ CTY ĐIỆN LỰC TPHCM ĐẢM BẢO CUNG CẤP ĐIỆN ỔN ĐỊNH VÀ TOÀN CHO NGƯỜI DÂN THÀNH PHỐ SẢN XUẤT VÀ SINH HOẠT

Vào 6 tháng đầu năm 2015, Tổng công ty Điện lực TP.HCM (EVN HCMC) đã thực hiện tốt nhiệm vụ đảm bảo cung cấp điện ổn định, an toàn phục vụ sản xuất và sinh hoạt của người dân Thành phố, đặc biệt là vào các dịp lễ, hội quan trọng (như kỷ niệm 40 năm Ngày giải phóng hoàn toàn Miền Nam, thống nhất đất nước 30/4/1975-30/4/2015, kỷ niệm 125 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh 19/5/1890-19/5/2015, kỳ thì Phổ thông trung học Quốc gia,….). 

Bên cạnh nhiệm vụ cung cấp điện phục vụ người dân Thành phố, EVN HCMC đã tích cực triển khai các nhiệm vụ và giải pháp liên quan của ngành điện góp phần thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, tập trung tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, phục hồi tăng trưởng kinh tế của thành phố theo đúng các chỉ đạo của Chính Phủ và Thành phố.

Nhằm cung cấp điện phục vụ cho 2.067.970 khách hàng trên địa bàn thành phố luôn ổn định, EVNHCMC đã đầu tư hệ thống điện có độ dự phòng lưới điện truyền tải khoảng 45% và 52% (tương ứng MBA và đường dây), chưa xét đến các công trình đang triển khai thi công. Hầu hết các trạm biến áp 110kV trên địa bàn thành phố đều được cấp từ hai đường dây 110kV xuất phát từ 1 hoặc 2 trạm biến áp 220kV. Trong 6 tháng đầu năm việc cắt điện để thi công đã giảm rất nhiều do EVNHCMC đã tổ chức thi công trên đường dây đang mang điện (live-line) là 1.365 lượt tăng 759 lượt so với cùng kỳ năm 2014.

Trong 6 tháng cuối năm 2015, để đảm bảo cung cấp nguồn điện ổn định, EVNHCMC tiếp tục triển khai nhiều giải pháp như tiếp tục triển khai kịp thời các chỉ đạo điều hành của Thành ủy, Ủy ban nhân dân thành phố về phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách thành phố năm 2015; tiếp tục đảm bảo cung cấp điện các Lễ hội, sự kiện quan trọng trên địa bàn TP.HCM; tiếp tục đẩy mạnh công tác thi công sửa chữa điện nóng đối với các công tác bảo trì lưới điện, xử lý ngăn ngừa sự cố và đấu nối các công trình đầu tư xây dựng mới…;khẩn trương triển khai thi công và đưa vào vận hành một số công trình trọng điểm trong năm 2015 như dự án trạm biến áp 220/110kV Công nghệ cao cấp điện cho nhà máy của Tập đoàn SamSung đặt tại khu công nghệ cao, đường dây 220/110kV Cát Lái – Công nghệ cao cấp điện cho trạm biến áp 220/110kV Khu Công nghệ cao và nâng cao độ tin cậy cung cấp điện cho các khách hàng lớn như SamSung, Intel….

 7/ Trao đổi thông tin về tình hình thay đổi giá bán điện năng 2016:

Điện Lực TPHCM - EVHCMC: tiếp thu ý kiến phản ánh của doanh nghiệp sử dụng Điện

 Tại Hội trường của EVNHCMC Ngày 11/9, EVNHCMC đã phối hợp cùng Ban Quản lý các Khu chế xuất – Khu Công nghiệp Tp.HCM tổ chức Hội nghị “Trao đổi và lắng nghe ý kiến các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài liên quan đến các dịch vụ về điện”. 

Tham dự Hội nghị có ông Nguyễn Xuân Thủy – Phó trưởng Ban Quản lý các KCX-KCN, về phía EVNHCMC có ông Lê Văn Phước - Chủ tịch kiêm Tổng Giám đốc TCT cùng hơn 180 đại biểu đại diện các Sở, Ban, Ngành, các doanh nghiệp sản xuất và thương mại có vốn đầu tư nước ngoài đóng trên địa bàn Tp.HCM. 

Phát biểu khai mạc tại Hội nghị, ông Nguyễn Xuân Thủy cho biết từ năm 2012- 2014 toàn Thành phố đã tiết kiệm được 1,44 tỷ kWh điện (tương đương giảm 809,922 tấn CO2 ), trong đó các KCX-KCN tiết kiệm được 165,75 triệu kWh (tương đương giảm 95,51 tấn CO2 ). Dự kiến năm 2015 Thành phố sẽ tiết kiệm được được 400 triệu kWh điện. Mục đích của  Hội nghị là được lắng nghe các doanh nghiệp chia sẻ, trao đổi về những khó khăn trong quá trình thực hiện các quy định pháp luật trong lĩnh vực sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, các nhu cầu về cung ứng điện cũng như các loại dịch vụ cần thiết trong lĩnh này để tạo điều kiện cho doanh nghiệp thuận lợi hơn trong hoạt động sản xuất – kinh doanh, cùng chung tay góp phần thực hiện tốt “Chương trình Năng lượng xanh thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2015” nói riêng và “Chương trình mục tiêu quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả” nói chung.

Hội nghị cũng đã được nghe đại diện Sở Công thương phổ biến các chính sách về tiết kiệm năng lượng và tư vấn các giải pháp tiết kiệm điện trong sản xuất. Trung tâm chăm sóc khách hàng EVNHCMC giới thiệu và hướng dẫn cài đặt các ứng dụng đang được triển khai tại Trung tâm qua thiết bị di động nhằm tạo điều kiện thuận lợi và cung cấp kịp thời các thông tin đến khách hàng, đặc biệt là khách hàng lớn về lịch cắt điện, nhận và truy suất hóa đơn điện tử, tiền điện, thanh toán tiền điện trực tuyến… 

Hơn 30 ý kiến được đưa ra tại Hội nghị, ngoài các ý kiến khen ngợi về dịch vụ, mức độ thuận lợi và chất lượng điện, như: số lần mất điện trong năm giảm; doanh nghiệp luôn nhận được thông báo trước về cúp điện định kỳ; dịch vụ phát triển đa dạng, có nhiều kênh thu thập thông tin liên quan đến dịch vụ điện để khách hàng phản ánh… Tuy nhiên, EVNHCMC còn nhận được các ý kiến phản ánh, đóng góp cho sự hoàn thiện đối với doanh nghiệp cung ứng điện năng, như: mong chất lượng điện áp tốt hơn nữa; khi có sự cố khách hàng liên lạc vào Trung tâm chăm sóc khách hàng còn khó khăn; mong muốn được cung cấp những thông tin quan trọng cho khách hàng qua email, tin nhắn…; thông tin rõ cho khách hàng về giá điện và kế hoạch chuyển đổi cấp điện áp từ 15kV lên 22kV vào năm 2017; …

Đối với những phản ánh trên, lãnh đạo EVNHCMC đã chỉ đạo các Công ty Điện lực trực thuộc thực hiện giảm hoặc không cắt điện công tác đối với khách hàng tại KCX – KCN, trong trường hợp cắt điện theo kế hoạch phải thông báo trước 01 tháng để khách hàng có kế hoạch sản xuất phù hợp. Đồng thời phải tăng cường phối hợp với lãnh đạo các doang nghiệp để cung cấp kịp thời các thông báo có liên quan thay vì chỉ thông báo cho một người chuyên trách như trước đây. 

Với tinh thần cầu thị, lãnh đạo EVNHCMC tiếp thu các ý kiến của khách hàng, cam kết sớm đưa ra những biện pháp khắc phục những tồn tại trong dịch vụ và chất lượng điện áp để đảm bao cho khách hàng được sử dụng điện với chất lượng ngày cáng cao và dịch vụ ngày càng hoàn hảo theo đúng cam kết của EVNHCMC.

 8/ Rút ngắn thời gian tiếp cận Điện Năng lưới Điện Trung hạ áp:

Tổng CTY ĐIỆN LỰC VIỆT NAM - EVN xin thông báo tới Quý khách hàng:

Ngày 10/10/2014, Bộ Công Thương đã ban hành Thông tư 33/2014/TT-BCT về việc quy định một số nội dung về rút ngắn thời gian tiếp cận điện năng.

Tại Thông tư, Bộ Công Thương đã sửa đổi, bổ sung một số quy định về trình tự, thủ tục thực hiện thỏa thuận đấu nối điện; quy định trách nhiệm của UBND cấp tỉnh trong việc triển khai thực hiện các nội dung về rút ngắn thời gian tiếp điện năng…

Trong đó quy định, đối với khách hàng sử dụng điện có trạm riêng đấu nối vào lưới điện trung áp, trong vòng 05 ngày làm việc kể từ nhận đầy đủ hồ sơ hợp lệ của khách hàng, đơn vị phân phối điện có trách nhiệm hoàn thành đàm phán và ký thỏa thuận đấu nối. Tiếp theo, trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận đầy đủ hồ sơ đóng điện điểm đấu nối hợp lệ, đơn vị phân phối điện có trách nhiệm hoàn thành đóng điện chạy thử, nghiệm thu và đóng điện vào vận hành chính thức cho khách hàng đề nghị đấu nối.

Trước ngày dự kiến đóng điện lần đầu và chạy thử, khách hàng đề nghị đấu nối phải cung cấp cho đơn vị phân phối điện 02 bộ hồ sơ phục vụ kiểm tra điều kiện đóng điện điểm đấu nối, gồm các tài liệu như: Hồ sơ hoàn công và nghiệm thu công trình; tài liệu thiết kế kỹ thuật sau khi hoàn thành thỏa thuận thiết kế với đơn vị phân phối điện và được thẩm tra của cơ quan có thẩm quyền; tài liệu hướng dẫn vận hành và quản lý thiết bị của nhà chế tạo…

Trước ngày đóng điện lần đầu và chạy thử, khách hàng tiếp tục phải cung cấp cho đơn vị phân phối điện lịch chạy thử và đóng điện vận hành các trang thiết bị điện; thỏa thuận phân định trách nhiệm mỗi bên về quản lý, vận hành trang thiết bị đầu nối; các quy định nội bộ cho an toàn vận hành thiết bị đấu nối; danh sách nhân viên vận hành.

Thông tư 33/2014/TT-BCT có hiệu lực kể từ ngày 25/11/2014.

Toàn bộ nội dung đính kèm:   THÔNG TƯ 33/2014/TT-BCT

 9/ Ngày nay năng lượng mặt trời ngày càng được các cá nhân và tổ chức sử dụng rộng rãi.

Điện mặt trời là một hướng phát triển tích cực trong việc cung cấp năng lượng cho các nhu cầu tư nhân và công cộng. Nhưng có lẽ cũng cần biết đến những ưu và khuyết điểm của nguồn năng lượng tự nhiên này.

Ưu điểm của năng lượng mặt trời

1. Khả năng tái tạo

Điện mặt trời là một nguồn năng lượng tái tạo, không giống như các nhiên liệu hóa thạch như than, dầu mỏ, khí đốt… là những nguồn nhiên liệu không thể phục hồi. Theo tính toán của NASA, mặt trời còn có thể cung cấp năng lượng cho chúng ta trong khoảng 6,5 tỉ năm nữa.

2. Sự phong phú, dồi dào

Tiềm năng của năng lượng mặt trời là rất lớn - mỗi ngày, bề mặt trái đất được hưởng 120.000 terawatts (TW) của ánh sáng mặt trời, cao gấp 20.000 lần so với nhu cầu của con người trên toàn thế giới (1TW = 1.000 tỉ W).

3. Nguồn cung bền vững và vô tận

Năng lượng mặt trời là vô tận, dư thừa để đáp ứng nhu cầu về năng lượng của nhân loại, đủ dùng cho muôn vàn thế hệ về sau.

4. Tính khả dụng

Năng lượng mặt trời có thể được tiếp nhận và sử dụng ở mọi nơi trên thế giới - không chỉ ở vùng gần xích đạo trái đất mà còn ở các vĩ độ cao thuộc phía bắc và phía nam. Ví dụ, Đức hiện đang chiếm vị trí hàng đầu thế giới trong việc sử dụng năng lượng mặt trời và có kế hoạch tận dụng tối đa tiềm năng này.

5. Sạch về sinh thái

Theo xu hướng phát triển gần đây trong cuộc đấu tranh cho việc làm sạch môi trường trái đất, năng lượng mặt trời là lĩnh vực hứa hẹn nhất, có thể thay thế một phần năng lượng từ các nguồn nhiên liệu không tái tạo được và do đó, nó đóng vai trò quan trọng trong công cuộc bảo vệ môi trường từ sự tăng nhiệt toàn cầu. Việc sản xuất, vận chuyển, lắp đặt và vận hành các nhà máy điện mặt trời về cơ bản không phát thải các loại khí độc hại vào khí quyển. Ngay cả khi có phát thải một lượng nhỏ thì nếu so sánh với các nguồn năng lượng truyền thống, lượng khí này là không đáng kể.

6. Không gây tiếng ồn

Trên thực tế, việc sản xuất năng lượng mặt trời không sử dụng các loại động cơ như trong máy phát điện, vì vậy việc tạo ra điện không gây tiếng ồn.

7. Hiệu quả cao, chi phí hoạt động thấp

Chuyển sang sử dụng pin mặt trời, các hộ gia đình sẽ có được một khoản tiết kiệm đáng kể trong ngân sách chi tiêu. Việc bảo trì, duy tu hệ thống cung cấp năng lượng mặt trời cho hộ gia đình đòi hỏi chi phí rất thấp - trong 1 năm, bạn chỉ cần một vài lần lau chùi sạch các tấm pin năng lượng mặt trời và chúng luôn được các nhà sản xuất bảo hành trong khoảng thời gian lên tới 20-25 năm.

8. Áp dụng rộng rãi

Phổ ứng dụng của năng lượng mặt trời rất rộng - cung cấp điện tại các khu vực không có kết nối với lưới điện quốc gia (ngay cả ở những quốc gia phát triển cao như Mỹ, Nga, Pháp… hiện cũng vẫn có những vùng sâu vùng xa được gọi là “điểm mù về điện” như thế); dùng để khử muối trong nước biển ở nhiều quốc gia châu Phi khan hiếm nước ngọt và thậm chí cả việc cung cấp năng lượng cho các vệ tinh trên quỹ đạo trái đất. Điện mặt trời gần đây được gọi là "năng lượng toàn dân", phản ánh sự đơn giản của việc tích hợp điện mặt trời vào hệ thống cung cấp điện nhà, song song với điện lưới hoặc điện từ các nguồn cung khác.

9. Công nghệ tiên tiến

Công nghệ sản xuất pin mặt trời mỗi ngày một tiến bộ hơn - mô-đun màng mỏng được đưa trực tiếp vào vật liệu ngay từ giai đoạn sơ chế ban đầu. Tập đoàn Sharp của Nhật Bản cũng là một nhà sản xuất pin mặt trời, vừa giới thiệu một hệ thống sáng tạo các yếu tố lưu trữ năng lượng cho kính cửa sổ. Những thành tựu mới nhất trong lĩnh vực công nghệ nano và vật lý lượng tử cho phép chúng ta kỳ vọng về khả năng tăng công suất của các tấm pin mặt trời lên gấp 3 lần so với hiện nay.

Nhược điểm

1. Chi phí cao

Có ý kiến cho rằng, điện mặt trời thuộc về loại năng lượng đắt tiền - đây có lẽ là vấn đề gây tranh cãi nhất trong việc sử dụng nguồn năng lượng này. Do việc lưu trữ năng lượng mặt trời tại các hộ gia đình đòi hỏi khoản chi phí đáng kể ở giai đoạn ban đầu, nhiều quốc gia khuyến khích việc sử dụng các nguồn năng lượng sạch bằng cách cho vay tín dụng để thực hiện hoặc cho thuê pin mặt trời theo những hợp đồng có lợi cho người thuê.

2. Không ổn định

Có một thực tế bất khả kháng: Vào ban đêm, trong những ngày nhiều mây và mưa thì không có ánh sáng mặt trời, vì thế năng lượng mặt trời không thể là nguồn điện chính yếu. Tuy nhiên, so với điện gió, điện mặt trời vẫn là một lựa chọn có nhiều ưu thế hơn.

3. Chi phí lưu trữ năng lượng cao

Giá của ắc quy tích trữ điện mặt trời để lấy điện sử dụng vào ban đêm hay khi trời không có nắng hiện nay vẫn còn khá cao so với túi tiền của đại đa số người dân. Vì thế, ở thời điểm hiện tại, điện mặt trời chưa có khả năng trở thành nguồn điện duy nhất ở các hộ gia đình mà chỉ có thể là nguồn bổ sung cho điện lưới và các nguồn khác.

4. Vẫn gây ô nhiễm môi trường, dù rất ít

Mặc dù so với việc sản xuất các loại năng lượng khác, điện mặt trời thân thiện với môi trường hơn, nhưng một số quy trình công nghệ để chế tạo các tấm pin mặt trời cũng đi kèm với việc phát thải các loại khí nhà kính, nitơ trifluoride và hexaflorua lưu huỳnh. Ở quy mô lớn, việc lắp đặt những cánh đồng pin mặt trời cũng chiếm rất nhiều diện tích đất nhẽ ra được dành cho cây cối và thảm thực vật nói chung.

5. Sử dụng nhiều thành phần đắt tiền và quý hiếm

Việc sản xuất các tấm pin mặt trời màng mỏng đòi hỏi phải sử dụng cadmium telluride (CdTe) hoặc gallium selenide indi (CIGS) - những chất rất quý hiếm và đắt tiền, điều này dẫn đến sự gia tăng chi phí.

6. Mật độ năng lượng thấp

Một trong những thông số quan trọng của nguồn điện mặt trời là mật độ công suất trung bình, được đo bằng W/m2 và được mô tả bằng lượng điện năng có thể thu được từ một đơn vị diện tích nguồn năng lượng. Chỉ số này đối với điện mặt trời là 170 W/m2 - nhiều hơn các nguồn năng lượng tái tạo khác, nhưng thấp hơn dầu, khí, than và điện hạt nhân. Vì lý do này, để tạo ra 1kW điện từ nhiệt năng mặt trời đòi hỏi một diện tích khá lớn của các tấm pin mặt trời.


Đối tác - khách hàng

200173.jpg
8008880.jpg
722454.jpg
047660.jpg
234927.jpg
869488.gif
007968.png
592039.jpg
913400.jpg
836075.jpg
321441.jpg
444334.jpg
341945.jpg
161333.jpg
038227.png
062393.jpg
650004.jpg
962484.jpg
273537.png
8784210.jpg
8784211.jpg
8784212.jpg
4901620.jpg
200173.jpg
8008880.jpg
722454.jpg
047660.jpg
234927.jpg
869488.gif
007968.png
592039.jpg
913400.jpg
836075.jpg
321441.jpg
444334.jpg
341945.jpg
161333.jpg
038227.png
062393.jpg
650004.jpg
962484.jpg
273537.png
8784210.jpg
8784211.jpg
8784212.jpg
4901620.jpg